Thơ Thiền

User avatar
Tóc Tiên
Bạn thâm giao
Bạn thâm giao
Posts: 1455
Joined: Wed Feb 04, 2015 4:57 am

Thơ Thiền

Postby Tóc Tiên » Fri Mar 13, 2015 4:56 am


Thơ Thiền




Thơ Thiền phản ảnh toàn bộ tư tưởng thiền học, có thể nói đó là kết quả của sự hội ngộ, dung hợp giữa thiền và thơ. Sở dĩ có sự hội ngộ, dung hợp thú vị này là vì thiền và thơ có nhiều điểm tương đồng. Phần lớn Thơ Thiền là những bài kệ, hoặc là vấn đáp giữa sư phụ và môn đệ cốt để khai thông trí tuệ. Nhiều bài khô khan nghiêm khắc như kinh tụng, nên Thơ Thiền còn được gọi là Kệ có nghĩa là ca ngợi, tụng tán, dùng để khẳng định giáo lý, kinh nghiệm, truyền tâm pháp cho đệ tử. Nhiều khi những câu trả lời còn có dạng công án không trực tiếp liền nghĩa với câu hỏi như trong bài Tham đồ hiển quyết (Chỉ rõ bí quyết đạo thiền cho môn đệ) của Viên Chiếu về Phật và Tánh. Sư đáp ở hai câu đầu:

Ly hạ trùng dương cúc (Trùng dương đến cúc vàng dưới dậu)
Chi đầu thục khí oanh (Xuân ấm về, oanh náo đầu cành)



Nhưng cũng có nhiều bài thơ bay bổng sống động như bài sau đây của Thiền sư Ðạo Nguyên:

Bãi sông sóng lặng
Trong cây gió yên
Thuyền ai ngủ bến
Trăng tròn nửa đêm
Trăng sáng vằng vặc



Thơ Thiền xuất phát từ Trung Hoa và phát triển mạnh từ thời nhà Đường. Ở Việt Nam phát triển vào thời Lý Trần. Các nước khác như Ấn Ðộ, Triều Tiên, Nhật Bản đều không làm loại thơ nầy. Hầu hết các học giả phương Tây cho rằng thơ Thiền là kiểu thơ Haiku của Nhật. Thật ra thơ Haiku Nhật có đặc điểm riêng của nó. Thơ Thiền cũng có đặc điểm riêng. Về hình thức thơ thường dùng các thể loại Ðường luật. Ở Việt Nam thơ chỉ viết bằng chữ Hán. Lời thơ mộc mạc hoà vào thiên nhiên, thức tỉnh trước sự vô thường, tha thiết với trật tự và sự mầu nhiệm của thế giới để giác ngộ và trở về với thế tục. Ngày nay, Thơ Thiền dùng đủ mọi thể loại và đề tài miễn nội dung thơ chứa đựng được tất cả sự hiểu biết sâu xa về thiền học.
Ở một mức độ khác, thơ thiền còn mô tả các biến cố trực tiếp chỉ thẳng vào chân lý huyền diệu thâm sâu (như các công án). Khai mở tâm ra khỏi thói quen cảm xúc sự vật theo cách thông thường.
Thiền tông chủ trương "bất lập văn tự", vì ngôn ngữ văn tự không có giá trị tuyệt đối, không diễn tả được hết những khái niệm trừu tượng về tâm linh, huống chi nó là vật ngoài tự tâm. Không chấp trước ngôn ngữ văn tự mà phải rời bỏ nó để đạt tới chân lý, để ngộ đạo. Thiền sư Thần Tán đời Đường đã mượn việc con ong cứ đâm đầu vào giấy dán cửa sổ tìm cách bay ra ngoài để nói lên việc nầy.

Bách niên toàn cố chỉ
Hà nhật xuất đầu thì?

(Trăm năm dùi giấy cũ
Ngày nào mới ló đầu?)



Thơ trước hết giống thiền ở cách thể nghiệm. Thơ là một nghệ thuật dùng ngôn từ để diễn đạt ý tưởng. Đối tượng nhận thức của thơ cũng là con người và cuộc sống. Thông qua ngôn từ, thơ biểu hiện những rung cảm về nội tâm và ngoại cảnh, những thao thức, trăn trở về thân phận con người, khiến cho người làm thơ và người đọc thơ cảm thông lẫn nhau. Thơ không chỉ phản ảnh cái hiện thực mà còn là nơi ký thác tâm tư, tình cảm và lý tưởng. Chính do cùng cảm ứng nhân sinh và vũ trụ mà thiền và thơ gặp nhau.
Ngôn ngữ của Thiền, không phải ngôn ngữ mà chúng ta thường sử dụng. Một tiếng hét vang của Ngài Lâm Tế làm bừng vỡ chân tâm của hành giả; những chiêu gậy hàng ma của Ngài Bách Trượng xua đi đám mây mù che mắt thế gian; sự im lặng đến vô tình của Ngài Bồ Đề Đạt Ma hay một đóa sen Đức Phật đưa lên ở hội Linh Sơn... đó là ngôn ngữ của Thiền. Mục đích của Thiền là ngộ chân tâm. Nó là những phương tiện để đập vỡ vỏ bọc mê ngộ về cuộc đời.
Bởi vậy, ngôn ngữ thiền là làn sóng giao cảm giữa người truyền và người nhận, là ngôn ngữ mà người không cùng tần số thì không thể bắt được, không thể cảm nhận được. Như bao nhiêu người đã từng đọc câu tụng “Ưng vô sở trú nhi sanh kỳ tâm”, vậy tại sao chỉ có một mình Ngài Huệ Năng chứng ngộ bởi câu này? Cái “Vô sở trú” trong lời kinh đã tương thích với “Vô sở trú” trong tâm của Ngài Huệ Năng, chính lời kinh đã khơi dậy bản tánh “vô sở trú” vậy.
Ngôn ngữ của thi ca là ngôn ngữ của cuộc sống tinh thần, êm đềm như những tiếng ru, khoắc khoải như những mảnh đời khổ lụy, đôi khi lại bàng bạc mênh mang những mộng mơ. Phải dấn thân vào thi ca mới hiểu được ngôn ngữ của thi ca là gì, vì nó muôn hình vạn trạng, đổi màu tùy theo làn sóng nắng, mà chỉ có những người đồng cảm mới hiểu nổi. Khi bước vào chỗ tận cùng của ngôn ngữ, thi ca sẽ chuyển hướng sang một lãnh vực khác, đó là sự giao cảm tâm hồn. Con người bao giờ cũng hướng đến “siêu việt tính” và vay mượn tất cả những gì đang có để đi đến đó. Ngôn ngữ trong thi ca thể hiện một cách chân thật, không đắn đo do dự khi nói lên những thực cảnh của cuộc đời và thực trạng của tâm hồn.
Ðến đây, Thiền sư và Thi nhân tuy không chung hướng nhưng đã bước vào một con đường. Cả hai đều gặp nhau trên nẻo đường sanh tử, nhưng ai là người ngã quỵ và ai là người đứng dậy? Ai ngồi bên biển đời chao đảo để làm thơ, và ai dũng mãnh bước đi trên những ngọn sóng dữ ?
Con người có cái nhìn giới hạn trong sự sống chết, nên cố hướng đến một cái gì vĩnh cửu, nhưng đó chỉ là giấc mộng, ước mơ không bao giờ hiện thực. Chỉ có một sự hiển nhiên là bản tính vô thường của sự vật. Bởi vậy, thơ Thiền thật là phóng khoáng. Những gì đang hiện hữu trong ta và xung quanh ta là sự hiện hữu nhiệm mầu. Hôm nay cũng có hoa có bướm, có mây trắng bàng bạc, có lá vàng rơi và vẫn còn nhịp thở. Đâu cần phải tìm lại những cánh bướm ngày xưa, đâu cần phải nhặt lại chiếc lá vàng mùa thu ấy, vì chúng sẽ làm cho chúng ta chìm đắm trong dĩ vãng mờ ảo. Nên thơ thiền toát lên từ đời sống an bình trong thực tại. Cái nhìn của Thiền sư và Thi nhân đối với ngoại cảnh đôi khi cũng tương tự, nhưng họ chỉ gặp nhau một điểm là thơ rồi lại rẽ hai dòng, trong thơ phong trần còn có những cái trắc trở.
Trên thế gian này, ai cũng đã từng ngắm trăng, nhưng trăng trong cái nhìn của Nguyễn Du ẩn chứa một nỗi buồn hắt hiu:

"Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc , nửa soi dặm trường"




Cũng vậy, Thiền sư bây giờ nhìn trăng không phải là trăng, nhìn nước bây giờ không phải là nước... vì tất cả đã hiện hữu:

"Nhìn ra trăng nước vơi đầy
Nhìn đời một giấc mộng dài ngắn thôi"


hoặc là

"Ta về rủ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say"


(Phạm thiên Thư)



Từ cõi thơ đến cõi mơ, từ cõi thực đến cõi hư chỉ cách nhau một đoạn đường phân biệt, và chỉ có Thiền sư mới có thể xóa hết đoạn đường này, để nắm ánh trăng trong tay mà không hề vọng niệm. Và hãy nhìn trăng đúng là trăng, thật là oan uổng khi bắt trăng phải xẻ làm đôi, hay bắt trăng phải lênh đênh, lạc loài trong cái nhìn chủ quan của mình. Sự phân biệt đối với ngoại cảnh sẽ làm cho chúng ta có cái nhìn sai lạc. Một nửa vầng trăng chìm đáy nước, một nửa vầng trăng ở trên không. Vậy trăng nào mới thật là trăng đây? Tất cả đều hiện hữu trong trùng trùng duyên khởi, các pháp hiện hữu trong nhau và hòa nhập vào nhau.
Vậy đó, Thiền sư và Thi nhân đều là những người đi tìm cuộc sống cho chính bản thân và tâm hồn mình. Họ gặp nhau trên các thắng cảnh kỳ diệu của thi ca, nhưng lại vội chia tay vì không cùng ý hướng. Thi nhân thì chỉ thích cái mờ mờ ảo ảo của màn sương để che phủ cuộc đời, vì chẳng muốn thấy những vết rạn nứt của thế giới đang trên đà hủy diệt. Thơ thiền dùng ngay những thiền ngữ để chuyển tải thiền lý, rõ ràng nhằm mục đích giác ngộ người khác.

Non Già vừng nguyệt tĩnh
Biển thẳm chiếc thuyền không
Hiểu thấu "không" và "có".
Rừng thiền mặc ruổi rong.


Thiền Sư Huệ Sinh
(Ngô Tất Tố dịch)



Thơ Thiền không những phản ảnh sâu sắc và tập trung vào đời sống tinh thần, mà tiếp tục mở rộng tới các lĩnh vực khác của cuộc sống, nhưng vẫn mang trong mình tư tưởng “hòa quang đồng trần”, “cư trần lạc đạo”. Nó giúp cho con người (dù là vua, tướng, hay sư) bước ra khỏi những giáo điều khô khan, cứng nhắc để nhập thế, giúp đời, tạo nên tinh thần khai phóng, cởi mở, vừa siêu thoát lại vừa gần gũi…

User avatar
Tóc Tiên
Bạn thâm giao
Bạn thâm giao
Posts: 1455
Joined: Wed Feb 04, 2015 4:57 am

Re: Thơ Thiền

Postby Tóc Tiên » Fri Mar 13, 2015 4:57 am

Thiền Niệm


Sống sao lòng thật thảnh thơi,
Xem đời như cuộc dạo chơi sơn hà,
Năm châu ấm một mái nhà,
Tình thương hiểu biết là quà Phật ban.

Dù xuống biển hay lên ngàn,
An nhiên tự tại... lạc quan tu Thiền,
Chánh niệm tuệ giác kết liền
Từ bi hỷ xả... mãn viên giữa trần.

Đất trời huyền diệu muôn phần,
Mưa thiêng Cam Lộ trong ngần rơi ... rơi...
Hòa chan Tâm Bụt nơi... nơi...
Thế giới rạng ánh mắt cười... thương nhau.



(sưu tầm)

User avatar
Tóc Tiên
Bạn thâm giao
Bạn thâm giao
Posts: 1455
Joined: Wed Feb 04, 2015 4:57 am

Re: Thơ Thiền

Postby Tóc Tiên » Fri Mar 13, 2015 4:58 am

Nụ Cười


Nụ cười hàm tiếu thoảng trên môi
Tâm thân hòa nhập nhất như rồi,
Mặt trời quán niệm soi khắp nẻo,
Từ hòa quán sát mọi sự trôi

(sưu tầm)

User avatar
Tóc Tiên
Bạn thâm giao
Bạn thâm giao
Posts: 1455
Joined: Wed Feb 04, 2015 4:57 am

Re: Thơ Thiền

Postby Tóc Tiên » Fri Mar 13, 2015 4:59 am

Thiền sư Chân Không



Thiền sư Chân Không tên thật là Vương Hải Thiền (1046 - 1100), người làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, mồ côi sớm, nhưng ham học. Năm 18 tuổi, đến nghe giảng kinh Pháp Hoa tại chùa Tịnh Lự, núi Đông Cứu, bắt đầu tỏ ngộ, đến tu ở núi Từ Sơn, nghiên cứu Thiền học. Được vua Lý Nhân Tông vời vào cung giảng kinh. Tuổi già, về quê dựng chùa Bảo Cảm. Mất ngày 1 tháng 11 năm Canh Thìn (1100) hưởng dương 55 tuổi.


Cảm hoài

Diệu bản hư vô nhật nhật khoa
Hoà phong xuy khởi biến sa bà
Nhân nhân tận thức vô vi lạc
Nhược đắc vô vi thuỷ thị gia.



Tỏ nỗi lòng

Chân không diệu thể quanh ta
Làm nên mây thuận gió hoà nơi nơi
Phúc thiền ai cũng biết rồi
Hoa thiền nở giữa lòng người dễ không?

(Nguyễn Bá Chung dịch)

User avatar
Tóc Tiên
Bạn thâm giao
Bạn thâm giao
Posts: 1455
Joined: Wed Feb 04, 2015 4:57 am

Re: Thơ Thiền

Postby Tóc Tiên » Mon May 11, 2015 12:34 am




Thiền sư Cứu Chỉ





Thiền sư Cứu Chỉ, tức Đàm Cứu Chỉ (sống khoảng năm 1000-1065), quê Phù Đàm, Châu Minh, là một trong 7 vị thiền sư thuộc thế hệ thứ 7 dòng Vô Ngôn Thông. Xuất gia, vào chùa Cảm Ứng, núi Ba Sơn. Sau, đến tu chùa Quang Minh , núi Tiên Du. Được triều đình trọng vọng, vua Lý Thái Tông thân tới chùa thăm viếng nhiều lần. Khoảng những năm 1054 – 1058 Tể tướng Dương Đạo Gia lập chùa Diên Linh trên núi Long Đột mời Sư về trụ trì và Thiền Sư mất tại đấy .


Thân tâm

Giác liễu thân tâm bản ngưng tịch
Thần thông biến hoá hiện chư tướng
Hữu vi, vô vi tùng thử xuất
Hà sa thế giới bất khả lượng
Tuy nhiên biến mãn hư không giới
Nhất nhất quán lại một hình trạng
Thiên cổ, vạn cổ nan tỷ huống
Giới giới, xứ xứ thường lãng lãng.


dịch:

Thân tâm

Giác ngộ thân tâm vốn lặng yên,
Thần thông các tướng biến hiện tiền.
Hữu vi vô vi từ đây có,
Thế giới hà sa không thể lường.
Tuy nhiên đầy khắp cõi hư không,
Mỗi mỗi xem ra chẳng tướng hình.
Muôn đời ngàn đời nào sánh được,
Chốn chốn nơi nơi thường rạng ngời.

User avatar
Tóc Tiên
Bạn thâm giao
Bạn thâm giao
Posts: 1455
Joined: Wed Feb 04, 2015 4:57 am

Re: Thơ Thiền

Postby Tóc Tiên » Sat Sep 12, 2015 10:28 pm



Diệu Nhân



Ni sư Diệu Nhân tên Lý Ngọc Kiều, con gái đầu của Phụng Càn Vương (em vua Lý Nhân tông, tên là Lý Nhật Trung). Được vua Lý Thánh Tông đem vào cung nuôi dạy từ nhỏ rồi gả chồng cho. Sau khi chồng mất, xuống tóc đi tu, thọ giáo với Thiền sư Chân Không, được thầy đặt đạo hiệu Diệu Nhân. Ngày Một tháng Sáu năm Quí Tỵ (1113) ngồi kiết già mà tịch, thọ 72 tuổi.

Sinh lão bệnh tử

Sinh lão bệnh tử,
Tự cổ thường nhiên.
Dục cầu xuất ly,
Giải phược thiêm triền.

Mê chi cầu Phật,
Hoặc chi cầu Thiền.
Thiền Phật bất cầu,
Đỗ khẩu vô ngôn.

dịch:

Sinh lão bệnh tử

Sinh, lão, bệnh, tử,
Lẽ thường tự nhiên.
Muốn cầu siêu thoát,
Càng trói buộc thêm.

Mê, phải cầu Phật,
Hoặc, phải cầu Thiền.
Chẳng cầu Thiền, Phật,
Mím miệng ngồi yên.

(Nguyễn đức Vân dịch)

User avatar
Tóc Tiên
Bạn thâm giao
Bạn thâm giao
Posts: 1455
Joined: Wed Feb 04, 2015 4:57 am

Re: Thơ Thiền

Postby Tóc Tiên » Sat Sep 12, 2015 10:30 pm



Huyền Quang




Huyền Quang (1254 - 1344 ) tên là Lý Ðạo Tái, người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng giang. Từ nhỏ, Ông đã có khiếu văn chương, năm 21 tuổi đỗ đầu kỳ thi Hương, được bổ làm quan Ở Hàn Lâm Viện và nhận mệnh vua đón tiếp sứ Trung Quốc. Khi Ông theo vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm ở huyện Phượng Nhãn để nghe sư Pháp Loa giảng kinh, liền có ý muốn xuất gia. Sau đó mấy lần Ông xin từ chức để đi tu, được vua Trần Anh Tông chấp nhận và giao cho sư Pháp Loa hướng dẫn. Ông trở thành vị tổ thứ 3 của dòng thiền Trúc Lâm.


Ðịa lô tức sự

Ôi dư cốt đột tuyệt phần hương
Khấu đáp sơn đồng vấn đoán chương
Thù bả xuy thương hòa thái thác
Ðò giao nhân tiếu lão tăng mang

dịch:

Trước bếp lò tức cảnh

Trẻ xóm núi hỏi sách chương,
Liền tay, chẳng thắp thêm hương...củi tàn
Bếp lò, ống thổi, no mang
Mặc ai cười lão sư gàn đa đoan.



Ngọ thụy

Vũ quá khê sơn tịnh,
Phong lâm giấc mộng lương.
Phản quang trần thế giới,
Khai nhãn túy mang mang.

dịch:

Giấc ngủ trưa
Tạnh mưa, núi lặng khe trong
Mộng ru gió mát rừng phong êm đềm.
Hồng trần ngoảnh lại mà xem
Bừng con mắt dậy say nhìn chứa chan.



Thạch thất

Bán gian thạch thất hòa vân trụ
Nhất lĩnh xối y kinh tuế hán
Tăng tại thiền sàng kinh tại án
Lô tàn cốt đột nhật tâm can

dịch:

Nhà trong vách núi

Nửa gian nhà ngủ trong mây,
Tàn đông rét mướt, chẳng dày tấm chiên.
Kinh trước án, sư giường thiền,
Lửa tàn, tro lạnh, ngoài hiên nắng hồng.



Yên Tử sơn am cư

Am bức thanh tiêu lãnh,
Môn khai vân thượng tằng.
Dĩ can Long Ðộng nhật.
Do xích Hổ Khê băng.
Bão chuyết vô dư sách.
Phù suy hữu sấu đằng.
Trúc lâm đa túc điểu,
Quá bán bạn nhàn tăng.

dịch:

Ở trên am núi Yên Tử

Am thiền lẫn với không trung,
Cổng ùn mây trắng trập trùng tầng cao.
Ðộng Rồng nắng quá cây sào
Mà nơi Khe Hổ còn bao tuyết dày.
Vụng về không chước mưu hay,
Thân già nương chiếc gậy mây bước từ ...
Lũ chim rừng trúc đó ư?
Thảy đều quen mặt nhà sư thanh nhàn.

(Khuê Văn Nguyễn Tấn Hưng dịch)

User avatar
Tóc Tiên
Bạn thâm giao
Bạn thâm giao
Posts: 1455
Joined: Wed Feb 04, 2015 4:57 am

Re: Thơ Thiền

Postby Tóc Tiên » Sat Sep 12, 2015 10:31 pm



Thiền sư Hương Hải



Thiền sư Hương Hải sanh năm 1628, tịch năm 1715. Ngài sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Năm 18 tuổi thi đỗ Hương Tiến (Cử nhân) được chọn vào làm Văn Chức trong phủ chúa Nguyễn. Năm 25 tuổi học đạo với Thiền sư Viên Cảnh và Viên Khoan ở Lục Hồ, được đặt pháp danh là Huyền Cơ Thiện Giác, pháp tự Minh Châu Hương Hải thuộc hệ phái Trúc Lâm Yên Tử. Ít lâu sau Ngài bị gièm pha có âm mưu với Gia quận công trở về bắc với chúa Trịnh, do đó bị chúa Nguyễn buộc vào Quảng Nam. Ngài không chịu an trí như thế và bỏ ra Bắc thật . Vua Lê chúa Trịnh, tiếp đón Ngài trọng hậu. Từ ấy, Ngài lập am trụ trì ở trấn Sơn Nam. Đến ngoài 80 tuổi, Ngài vẫn còn đuợc vua Lê tỏ lòng ngưỡng mộ. Thiền sư Hương Hải chú giải nhiều kinh phật và còn truyền lại tập Hương Hải thiền sư ngữ lục.

Nhạn Ảnh

Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy.
Nhạn vô di tích chi ý,
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.


dịch:

Bóng nhạn

Nhạn vút bay từng không
Bóng lồng trong nước lạnh
Nhạn không màng giữ dấu
Nước chẳng muốn lưu hình

User avatar
Tóc Tiên
Bạn thâm giao
Bạn thâm giao
Posts: 1455
Joined: Wed Feb 04, 2015 4:57 am

Re: Thơ Thiền

Postby Tóc Tiên » Sat Sep 12, 2015 10:31 pm



Thiền sư Khánh Hỷ



Thiền sư Khánh Hỷ tên thật là Nguyễn Khánh Hỷ (1067 - 1142) người làng Cổ Giao, quận Long Biên. Vốn theo học Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh (?). Khoảng năm 1133 – 1138 được vua Lý Thần Tông vời vào cung thuyết giảng về Thiền, được phong chức Tăng Lục, rồi thăng chức Tăng Thống.



Đáp Pháp Dung
sắc không phàm thánh chi vấn


Lao sinh hưu vấn sắc kiêm không
Học đạo vô qua phỏng tổ tông
Thiên ngoại mịch tâm nan địch thể
Nhân gian thực quế khởi thành tùng
Càn khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung
Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ
Thuỳ tri phàm thánh dữ tây đông.




Trả lời sư Pháp Dung
về sắc không phàm thánh

Hoài công hỏi sắc với không
Chi bằng hỏi tổ hỏi tông đạo nhà
Tìm tâm đâu ở ngoài ta
Quế trồng dưới ruộng thật là phí công
Càn khôn treo ngọn sợi lông
Chứa trong hạt cải mênh mông đất trời
Lớn lao một nắm tay thôi
Đông, tây, phàm, thánh xa xôi sá gì

(Nguyễn Duy và Nguyễn Bá Chung dịch)

User avatar
Tóc Tiên
Bạn thâm giao
Bạn thâm giao
Posts: 1455
Joined: Wed Feb 04, 2015 4:57 am

Re: Thơ Thiền

Postby Tóc Tiên » Sat Sep 12, 2015 10:32 pm



Thiền sư Không Lộ





Thiền sư Không Lộ (? -1119) họ Dương, người Hải Thanh, tỉnh Nam Ðịnh. Tổ tiên vốn làm nghề chài lưới, đến đời ông thì bỏ đi tu, trở thành thế hệ thứ 9 của dòng thiền Quan Bích. Ông cùng sư Giác Hải đi vân du nhiều nơi, sau dừng chân lại tại chùa Hà Trạch, chuyên tu tập Thiền Tông và Mật Tông. Tương truyền ông có nhiều phép thần thông. Về sau, ông trở về quê nhà, dựng chùa Nghiêm Quang thu nhận môn đồ, sống cuộc đời bình dị, không màng danh lợi .


Ngôn hoài

Trạch đắc long xà địa khả cư,
Dã tình chung nhật lạc vô dư.
Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.


dịch:

Tỏ lòng

Ðược đất long xà chọn trú cư ,
Thú quê nhàn nhã suốt ngày như ...
Có khi leo tít đầu non quạnh
Hét tiếng vang trời lạnh thái hư.

(Khuê Văn Nguyễn Tấn Hưng dịch)


Return to “Cổ thi”

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 1 guest